DOL có 15+ cơ sở tại TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng
DOL có 15+ cơ sở tại TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng
Xuất khẩu được hiểu theo tiếng anh là export. Exporter có nghĩa là người xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hóa có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế:
- Tạo doanh thu cho doanh nghiệp. Bán hàng cho khách nước ngoài là cách mở rộng thị trường ra ngoài biên giới quốc gia, giúp nâng tầm doanh nghiệp trong nước. Đây cũng là một trong những lợi thế chính của thương mại quốc tế. – Bán hàng cho khách hàng nước ngoài là một cách để mở rộng thị trường ra ngoài biên giới quốc gia bằng cách đáp ứng lợi ích của công ty và quốc gia. Xuất khẩu thúc đẩy sản xuất trong nước bằng cách khuyến khích sử dụng lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của các quốc gia.
- Góp phần nâng tầm doanh nghiệp quốc gia. Đây cũng là một trong những lợi thế chính của thương mại quốc tế.
- Quảng bá thương hiệu doanh nghiệp và quốc gia trên trường quốc tế. Công ty mạnh xuất khẩu nhiều sản phẩm có giá trị ra thị trường quốc tế, ngoài việc chiếm lĩnh thị trường còn giúp khẳng định tên tuổi của công ty. Một quốc gia có nhiều thương hiệu mạnh cũng tự khẳng định thương hiệu của mình. Điều này được thấy rõ qua sự đóng góp của những tên tuổi lớn cho thương hiệu quốc gia như: Microsoft, Apple (Mỹ), Sony, Toyota (Nhật Bản), Samsung, Huyndai (Hàn Quốc), Lenovo, Alibaba (Trung Quốc)…
- Mang ngoại tệ về cho đất nước. Lợi thế này mang tính vĩ mô và cũng là yếu tố then chốt để các nước khuyến khích hoạt động xuất khẩu nhằm đảm bảo cán cân thanh toán, tăng tích lũy và dự trữ ngoại hối.
Trên thị trường toàn cầu, các thương nhân giao dịch với nhau theo những cách nhất định. Mỗi phương thức xuất khẩu có những đặc điểm và kỹ thuật riêng, tuy nhiên trên thực tế thường sử dụng một trong các phương thức chính sau:
Khái niệm trực tiếp là hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ do doanh nghiệp tự sản xuất hoặc mua từ các đơn vị sản xuất trong nước cho khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của chính doanh nghiệp đó.
Trường hợp công ty tham gia xuất khẩu là công ty thương mại không tự sản xuất thì việc xuất khẩu gồm 2 bước:
Mua hàng tạo nguồn hàng xuất khẩu với các đơn vị, địa phương trong cả nước.
Đàm phán ký kết với các công ty nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với quý đơn vị.
Là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị xuất nhập khẩu làm trung gian thay mặt nhà sản xuất ký kết hợp đồng xuất khẩu, làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu, so với nhà sản xuất và nhờ đó được hưởng một khoản tiền nhất định gọi là hoa hồng. . Hình thức này bao gồm các bước sau:
Chữ ký hợp đồng ủy thác xuất khẩu với các đơn vị toàn quốc.
Ký hợp đồng xuất khẩu, giao nhận và thanh toán hàng hóa ra nước ngoài.
Nhận hoa hồng ủy thác xuất khẩu từ các đơn vị trong nước.
Đối lưu là một trong những phương thức giao dịch xuất khẩu trong đó xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu, ở đó người bán đồng thời là người mua. Trong phương thức xuất khẩu này, mục tiêu là thu được một lượng hàng hóa có giá trị tương đương. Do đặc điểm này, phương thức này còn được gọi là xuất nhập khẩu liên kết hay hàng đổi hàng.
Buôn bán đối lưu đã tồn tại lâu đời trong lịch sử quan hệ hàng hóa-tiền tệ, quan hệ lâu đời nhất là hàng đổi hàng và thanh toán bù trừ.
Hàng đổi hàng: Hai bên trao đổi trực tiếp với nhau nhưng hàng hóa có giá trị ngang nhau, việc giao hàng diễn ra gần như đồng thời. Tuy nhiên, trong hàng đổi hàng hiện đại, tiền có thể được sử dụng để thanh toán một phần hàng hóa, điều này thậm chí có thể thu hút 3-4 bên.
Netting xảy ra khi hai bên trao đổi hàng hóa trên cơ sở ghi nhận giá trị của hàng hóa được giao. Hết thời hạn hai bên sẽ đối chiếu sổ sách, so sánh giá trị bàn giao và giá trị nhận về. Số dư, số tiền được giữ để thanh toán theo yêu cầu của chủ nợ.
Giao dịch đối lưu (Counper - Purchase) được thực hiện bởi một phần công nghiệp chế biến, bán thành phẩm và nguyên vật liệu.
Giao dịch này thường kéo dài từ 1 đến 5 năm và giá trị hàng giao đối với khoản thanh toán thường không đạt 100% giá trị hàng mua.
Chuyển nghĩa vụ (Swich) người nhận chuyển nợ cho bên thứ ba.
Các giao dịch đền bù trong đó mọi người trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ để lấy các dịch vụ và ưu đãi (chẳng hạn như ưu đãi đầu tư hoặc hỗ trợ bán sản phẩm) Giao dịch này thường xảy ra trong lĩnh vực thương mại công nghệ quân sự và chi phí vận chuyển các bộ phận và lắp ráp trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp. Trong chuyển giao công nghệ, thông thường sẽ tiến hành giao dịch mua vào, trong đó một bên cung cấp toàn bộ thiết bị hoặc cấp bằng sáng chế bí quyết công nghệ cho bên kia và đồng ý mua sản phẩm cho thiết bị hoặc phát minh bí quyết công nghệ.
- Xuất khẩu hàng hóa theo nghị định thư
Là hình thức xuất khẩu hàng hóa (thường là đối ứng nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ.
Đây là một trong những hình thức xuất khẩu mà công ty tiết kiệm được chi phí nghiên cứu thị trường: tìm kiếm khách hàng và khách hàng không gặp rủi ro trong thanh toán.
Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Thông thường ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và ở một số nước có mối quan hệ mật thiết và chỉ có ở một số công ty nhà nước. - Xuất khẩu tại chỗ
Đây là một hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển do những ưu điểm của nó.
Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hóa không cần qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn mua được. Vì vậy, doanh nghiệp xuất khẩu không cần phải thâm nhập thị trường nước ngoài mà khách hàng tự tìm đến doanh nghiệp xuất khẩu.
Mặt khác, doanh nghiệp không cần thực hiện các thủ tục như thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hóa… nên tiết giảm được nhiều chi phí.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, xu hướng tạm cư ngày càng trở nên phổ biến, nhìn chung số lượng người đi du lịch nước ngoài ngày càng tăng nhanh. Các doanh nghiệp nhận thức đây là cơ hội tốt để hợp tác với các tổ chức du lịch thực hiện các hoạt động cung ứng hàng hóa, dịch vụ thu ngoại tệ. Hơn nữa, các công ty cũng có thể tận dụng cơ hội này để quảng bá sản phẩm của mình thông qua khách tham quan.
Mặt khác, với việc hình thành hàng loạt khu chế xuất ở nhiều nước cũng là một hình thức xuất khẩu hiệu quả được các nước hướng đến nhiều hơn. Việc thanh toán này cũng rất nhanh chóng và tiện lợi.
Là phương thức kinh doanh trong đó một bên được gọi là bên nhận gia công nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên thầu phụ) để gia công thành phẩm giao cho bên đặt gia công và nhận tiền công (gọi là phí xử lý). Đối với bên nhận thầu phụ: Phương thức này giúp họ tận dụng được giá rẻ, nguyên vật liệu và nhân công của nước sở tại.
Về phần thầu phụ: Hình thức này giúp họ giải quyết việc làm cho lao động trong nước hoặc nhập thiết bị, công nghệ mới của nước họ, nhằm xây dựng nền công nghiệp quốc gia như Nam Triệu, Tiền, Thái Lan, Singapore….
Là hình thức tái xuất ra nước ngoài những hàng hóa đã nhập khẩu trước đó, chưa qua gia công chế biến tại nước tái xuất thông qua hợp đồng tái xuất bao gồm cả xuất nhập khẩu nhằm thu được lượng ngoại tệ lớn hơn
Hợp đồng này luôn thu hút ba nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu. Vì vậy, người ta gọi giao dịch tái xuất là giao dịch tay ba hay giao dịch tam giác (Triangirlar transaction).
Tái xuất có thể được thực hiện theo hai cách:
Tái xuất là hàng hóa đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi lại xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược lại với sự di chuyển của hàng hóa là sự di chuyển của tiền tệ, bắt nguồn từ nước nhập khẩu sang nước tái xuất khẩu và nhanh chóng chuyển sang nước xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư nhà xưởng máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn.
Hoạt động tái xuất đòi hỏi sự nhạy bén với tình hình thị trường và giá cả, tính chính xác và chặt chẽ trong hoạt động thương mại. Vì vậy, khi các công ty xuất khẩu theo hình thức này cần phải có đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn cao.
Kết luận: Với bất kỳ số lượng xuất khẩu nào kể trên, người xuất khẩu cần phải cẩn thận và tìm hiểu các thủ tục cần thiết để công việc diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Và một trong những bước quan trọng có thể kể đến dịch vụ hải quan phù hợp để tránh những rủi ro có thể xảy ra, nhằm giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp trong quá trình xuất khẩu hàng hóa.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
Có thể bạn đã nghe nhiều về cụm từ “xuất khẩu tư bản” nhưng lại không hiểu xuất khẩu tư bản là gì và nó có gì khác so với xuất khẩu thông thường. Bài viết dưới đây Luật Trần và Liên Danh sẽ giúp các bạn giải đáp thắc mắc về xuất khẩu tư bản là gì, đặc điểm và mục đích của xuất khẩu tư bản là gì. Mời các bạn cùng theo dõi!
Xuất khẩu tư bản là gì? Bản chất, mục đích và các hình thức
V.I.Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
– Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư tại nước sở tại.
– Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng một số “tư bản thừa” tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận; trong khi đó ở nhiều nước lạc hậu về kinh tế, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nhưng lại rất thiếu tư bản nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản
– Xuất khẩu tư bản xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp). Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho vay để thu lợi tức. Xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản Nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan cũng có những tác động tích cực đến nền kinh tế của nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Lênin khẳng định rằng, xuất khẩu tư bản khác về nguyên tắc với xuất khẩu hàng hóa và là quá trình ăn bám bình phương. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến vì:
Một là, trong một số ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng lớn tư bản kếch xù và một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa” do không tìm được nơi đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao ở trong nước.
Hai là, khả năng xuất khẩu tư bản xuất hiện do nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới, nhưng lại rất thiếu tư bản. Các nước đó giá ruộng đất lại tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao.
Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn kinh tế – xã hội càng gay gắt.
Xuất khẩu tư bản trở thành biện pháp làm giảm mức gay gắt đó.
Các hình thức và hậu quả của xuất khẩu tư bản
* Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, nếu xét cách thức đầu tư thì có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:
– Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài.
– Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và quốc gia, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua trái khoán hay cổ phiếu của các công ty ở nước nhập khẩu tư bản.
* Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân:
– Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân.
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.
Về quân sự, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần để bán vũ khí.
– Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.
Nếu xét về cách thức hoạt động , có các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và chuyển giao công nghệ, trong đó, hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản thường sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là sự bành trường thế lực của tư bản tài chính nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột giá trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm cho mâu thuẫn kinh tế – xã hội gia tăng.
Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản
Ngày nay , trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi lớn.
Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển ( chiếm tỷ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn 16,8% (1996) và hiện nay khoảng 30%. Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương… Những ngành này có thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu , không phù hợp, tình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước (còn với nước đang phát triển nhưng đã trở thành Nics thì tỷ trọng của luồng tư bản xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu của các nước đang phát triển). Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng hình thành các khối kinh tế với những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi , mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học – công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn của quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên.
Thứ hai là chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI. Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển mà nổi bật là các Nics châu Á.
Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT, BT… sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công nghiệp hoá và tái công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu tư bản phát triển nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là với các nước đang phát triển những hậu quả nặng nề như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột quá nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản , nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá ở nứơc mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng mềm dẻo, linh hoạt , nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.
Trên đây là những kiến thức xoay quanh xuất khẩu tư bản là gì, đặc điểm và mục đích của xuất khẩu tư bản. Hi vọng các bạn đã hiểu hơn về vấn đề này từ đó nhìn nhận một cách chính xác, vận dụng vào trong học tập nghiên cứu hay phát triển một cách hiệu quả nhất.